Tôi biết có những gia đình mà con cái đã hai mươi hay ba mươi tuổi mà cha mẹ vẫn không sao ngủ được cho đến khi «mấy đứa nhỏ» về đến nhà. Sự chữa trị đúng mức chứng tuyệt vọng đối với người già thường bị người ta từ chối. «Tất cả những người đàn ông tốt đều có vợ cả rồi» hay «Ôi sao phụ nữ mang theo nhiều thứ thế nhỉ?» là những lời tự biện hộ mà tôi thường nghe thấy.
Ưu điểm lớn của sự ốm đau là nó giúp người ta lẩn tránh bổn phận. Khi chúng ta cố tìm sự thoả mãn trong những ý tưởng trẻ thơ đó, chúng được thay thế bởi một ý nghĩa khác, nhờ có Adam và Eva, cuộc sống là một cuộc đấu tranh, đầy những nỗi đau và mất mát và kết thúc thật tồi tệ. Mọi người cần phải nhìn nhận cách sống của mình bằng con mắt khác.
Tự nhiên là điều này sẽ dẫn tới sự rối loạn trong suy nghĩ của chúng ta về việc cái gì có giá trị hay có thể bền lâu. Có cả một lô các nhà báo nữa, một người trong số họ thậm chí còn hỏi Patton là rằng đó có phải là lời cầu nguyện chính thức của đơn vị chúng tôi không. Nếu quả thực như vậy thì không hề có chứng cớ gì về điều này trong những năm tôi biết ông ấy và tôi băn khoăn liệu cái phẩm chất đáng quý này, như chiếc huân chương cho một chiến sỹ đã hy sinh, có thể đã được ban tặng khi người ta giã từ cõi đời hay không.
(Anh ta: «Tại sao em không thể có tinh thần trách nhiệm hơn?» Cô ta: «Anh thực sự không biết thế nào là vui vẻ hết!»). Tôi thường giúp mọi người thấy rõ rằng hầu hết những sự đau đớn thất vọng của họ không hề được người bạn đời chia sẻ và đó chính là lý do tại sao họ không kiểm soát được tình hình, họ thường nhanh chóng nhận ra sai lầm của mình. Sự tan vỡ ảo tưởng này chính là một rào chắn chủ yếu cho những sự thay đổi bởi vì mọi người không mong đợi để đám liều lĩnh trong tình cảm của mình khi họ theo đuổi những mục đích mà họ nghĩ là không thể đạt tới.
chúng ta sẽ phải đi đến sự thoả hiệp với những mất mát không thể tránh khỏi đè nặng lên cuộc sống của chúng ta. Chúng con ghi nhớ rằng Chúa Trời đã nói: «Ta đến không phải là mang hoà bình tới mà là thanh gươm» và chúng con đã cố gắng hết sức mình để được giống Người. Ai đã sống với những kẻ nghiện rượu có nghĩa là thường xuyên phải ở trong tình trạng chịu đựng một chứng bệnh nào đó của anh ta.
Dưới dạng phóng đại nhất, người ta gọi nó là những ám ảnh. Khi người ta cố gắng biện hộ cho những quan điểm bảo thủ của mình, họ thiếu gì chứng cứ. Thật là một sự trái qui luật tự nhiên khi cha mẹ phải chôn chính con cái mình.
Điều đó bây giờ nghe có vẻ buồn cười hơn là bi đát. Trong thực tế, cái điều đã trải qua đối với tình yêu của những người trưởng thành rất giống với một loại hợp đồng dịch vụ không thành văn bản. Khi mọi người tỏ ra coi thường cái chết, tại sao không đề nghị họ thêm vào một đoạn: «Và trên văn bia, tôi muốn được viết như sau…?».
Chúng tôi đã mang một gánh nặng thời gian và số phận, trái tim của chúng tôi trĩu nặng ký ức về những ai đã không thể trở lại và câu chuyện về họ đã mất dần trừ tình yêu đối với họ. Nhờ có nhiều sự lựa chọn một cách thoải mái, cha mẹ có thể đón nhận một giả định ít cứng nhắc hơn và lạc quan hơn là: khi được yêu thương và ủng hộ, hầu hết bọn trẻ đều trở thành những con người hạnh phúc và có ích, độc lập với bất cứ lý thuyết nuôi dưỡng con cái nào mà chúng phải hứng chịu. Có những người bào chữa cho việc cờ bạc rằng nó khơi gợi nên hy vọng.
Điều tương tự cũng xảy ra với con người. Cha mẹ tôi không bao giờ đề cập đến vấn đề này. Quả thật là chúng ta đã tạo ra một hệ thống mà qua đó, có những người được chính phủ cấp chứng chỉ là những kẻ bị tàn tật về cảm xúc và được ưu tiên về lợi ích như thể là họ buộc phải dính chặt vào xe lăn vậy.
Những bài học cơ bản nhất về tình yêu mà tôi học được trong khoá học đã được các bậc cha mẹ, những người vợ người chồng và con cái của những người bị mắc chứng Alzheimer4, tâm thần phân liệt hay bị liệt tứ chi kể cho tôi nghe. Tạo ra một tình trạng phụ thuộc thật sự. Điều này đặc biệt gây bối rối khi người ta được yêu cầu giải thích giấc mơ và sự lỡ miệng nói ra những ý nghĩ hay tự phát làm những điều mà chúng ta hầu như không muốn đối mặt với chúng.