Lúc này, kỹ năng ngữ pháp và logic cũng đóng vai trò giúp chúng ta hiểu rõ những gì đang được trình bày, và chuẩn bị để đưa ra lời phê bình, nhận xét. Do đó, cuốn Principles of Psychology (Những nguyên tắc tâm lý học) của ông vừa là một tác phẩm khoa học vừa là một tác phẩm triết học mặc dù mục tiêu chính của nó liên quan đến khoa học. Có ý kiến cho rằng, đọc đồng chủ đề (theo nghĩa rộng nói ở trên) là điều không thể.
Ví dụ bạn nói Tao yêu mày với con chó của bạn bằng một giọng giận dữ, nó sẽ co rúm lại vì sợ và không thể hiểu được bạn nói gì. Cũng như từ điển, tất cả các cuốn bách khoa toàn thư đều là công cụ giáo dục và hàm chứa thông tin. Nếu các tác giả và giáo viên không sắp xếp, hoặc không biết thống nhất và tổ chức những thông tin mà họ truyền đạt thành những phần khác nhau, thì sẽ chẳng ích gì khi hướng dẫn người đọc hay người nghe tìm kiếm tính chỉnh thể và khám phá cấu trúc của cả cuốn sách.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây là phải phân biệt được nhiều loại sách khoa học khác nhau. DỮ KIỆN LÀ NHỮNG NHẬN ĐỊNH ĐÚNG. Ví dụ, ta có thể đặt những câu hỏi về sự tồn tại như: sự khác biệt giữa tồn tại và không tồn tại là gì? Điều gì chung cho tất cả những gì tồn tại và mọi thứ tồn tại có những đặc tính nào? Có những cách tồn tại khác nhau không? Có điều gì chỉ tồn tại trong trí óc hay phục vụ trí óc không và chúng ta có biết chúng hay khám phá chúng không? Mọi thứ tồn tại có tồn tại hữu hình không hay có những thứ tồn tại không phụ thuộc vào vật chất? Có phải tất cả mọi thứ đều thay đổi không hay có vật nào đó không bao giờ thay đổi? Có cái gì tồn tại vì cần thiết không? Có phải phạm vi của những thứ có thể tồn tại lớn hơn phạm vi của những thứ thật sự tồn tại không?
Ngoài những câu hỏi về sự tồn tại, còn có hàng loạt câu hỏi triết học khác liên quan đến sự thay đổi hay biến chuyển. Nói như trên không có nghĩa rằng sách của Commoner quan trọng, còn sách của Whitehead và Barnett thì không. Không thể liệt kê thấu đáo mọi ý kiến về vấn đề nhưng người đọc vẫn phải cố gắng hoàn thành nó.
Độc giả đọc sách theo tinh thần này chỉ đọc cốt để tìm ra những điểm mình không tán thành. Nếu bạn đã từng chơi trò xếp hình, bạn sẽ thấy càng xếp được nhiều mảnh thì càng dễ tìm ra vị trí của các mảnh còn lại, đơn giản vì số mảnh còn dư ra ngày càng ít đi. Tuy nhiên, chúng tôi có thể nêu một ví dụ về sự sai làm hiển nhiên trong tác phẩm Quân vương của Machiavelli dưới đây.
Với đọc đồng chủ đề, chúng tôi đã sẵn sàng trả lời hai câu hỏi như thế về cuộc thảo luận. Họ sống là nhờ những yêu cầu mà công việc đặt ra cho trí não họ. Ở câu này, Aristotle muốn nói là thơ khái quát hơn và có tính phổ quát hơn lịch sử.
Thứ nhất là khi chúng ta học cách nói, thứ hai là khi ta học cách đọc. Nó khởi đầu việc đọc các cuốn sách lớn bằng cách cho phép người đọc đọc chính xác những sách viết về chủ đề anh ta quan tâm và đọc các bài ngắn về những chủ đề này của nhiều tác giả khác nhau. Mặc dù vậy, các phương tiện trợ giúp bên ngoài cũng rất có ích, và đôi khi rất cần thiết để người đọc hoàn toàn hiểu được cuốn sách.
Nhân chứng của các sự kiện đó thường không còn nữa. Không ai có thể đọc được các tác phẩm của Euclid nếu không hiểu rằng những từ điểm, đường thằng, mặt phẳng, góc, song song và một số từ khác là tối quan trọng. Tạo một thư mục tạm thời những sách cần đọc về chủ đề (thông qua danh mục sách trong thư viện, các chuyên gia và thư mục sách tham khảo trong các cuốn sách).
Minh họa trên là điển hình cho quá trình tiếp nhận ý nghĩa của độc giả. Bạn nên lưu ý đến mối quan hệ mật thiết giữa đọc và nghe. Quy tắc này đúng với mọi loại sách.
Ở đây, chung tôi đang nói đến những khó khăn phải đối mặt khi một độc giả không tin vào các tín điều của một tác phẩm thần học phải đối mặt. Chỉ khi bạn phân tách được tất cả các nhận định khác nhau thì bạn mới hoàn thành việc phân tích một câu quan trọng. Nếu quy tắc 2 hướng bạn chú ý đến tính chỉnh thể, thì quy tắc 3 lại hướng bạn tới tính phức tạp của cuốn sách.